Lịch sử bệnh Bạch hầu
Bệnh được Hippocrates miêu tả lần đầu tiên vào thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên. Một số tài
liệu cũng gợi ý đến sự hoành hành của bệnh bạch hầu ở Syria và Ai Cập cổ đại. Vào thế
kỷ 17 có rất nhiều vụ dịch đã tàn phá gây chết người hàng loạt tại châu Âu. Ở Tây Ban Nha
bệnh được biết dưới tên gọi "El garatillo" (kẻ treo cổ), còn ở Ý bệnh Bạch hầu có tên là "bệnh
cổ họng". Vào thế kỷ 18 bệnh Bạch hầu lan rộng đến các thuộc địa ở Mỹ và gây nên vụ dịch
vào khoảng năm 1735. Vào thời điểm đó thường chỉ trong vòng vài tuần thì cả gia đình có
người mắc bệnh đều lần lượt tử vong toàn bộ. Vi khuẩn Bạch hầu được phân lập vào giai đoạn
cuối thế kỷ XIX.
Dịch tễ của bệnh Bạch hầu
Bệnh Bạch hầu lưu hành ở mọi nơi trên thế giới và đã gây nên các vụ dịch nghiêm trọng, nhất
là ở trẻ em trong thời kỳ chưa có vắc xin. Theo số liệu được cung cấp bởi Cục Y tế Dự phòng
Việt Nam, khu vực Tây Thái Bình Dương, những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, hàng
năm có trên 13.000 trường hợp Bạch hầu, đến năm 1990 giảm xuống 1.130 trường hợp và
năm 1994 còn 614 trường hợp. Hiện nay, số mắc bệnh Bạch hầu hàng năm đã giảm rõ rệt do
hiệu quả của việc tiêm phòng Bạch hầu cho trẻ em ở các nước.
Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc Bạch hầu năm 1985 là 3,95/100.000 dân. Nhờ thực hiện tốt Chương
trình Tiêm chủng mở rộng quốc gia nên vào năm 2000 tỷ lệ mắc chỉ còn 0,14/100.000 dân.
Bệnh lây truyền như thế nào?
Bệnh Bạch hầu được lây truyền qua đường hô hấp do tiếp xúc với người bệnh hoặc người lành
mang vi khuẩn Bạch hầu. Bệnh còn có thể lây do tiếp xúc với những đồ vật có dính chất bài tiết của
người bị nhiễm vi khuẩn Bạch hầu.
Lây qua đường hô hấp Tiếp xúc với đồ chơi, vật dụng có mang vi khuẩn
Triệu chứng và biến chứng của Bệnh bạch hầu.
Người bệnh Bạch hầu có triệu chứng viêm họng, mũi và thanh quản, họng đỏ, đau khi nuốt,
da xanh, mệt mỏi, nổi hạch dưới hàm làm sưng tấy vùng cổ. Trong vòng 2 - 3 ngày, giả mạc
bắt đầu xuất hiện, thường có màu trắng ngà hoặc màu xám, dính chặt vào xung quanh tổ chức
viêm, nếu bóc ra sẽ bị chảy máu.
Sốt Đau họng, nuốt đau Hạch dưới hàm, sưng tấy vùng cổ Mệt mỏi Giả mạc xuất hiện
Bạch hầu thanh quản là thể bệnh nặng ở trẻ em, biểu hiện tại chỗ là giả mạc thanh quản và
biểu hiện toàn thân là nhiễm độc thần kinh, liệt thần kinh sọ não, thần kinh cảm giác, thần kinh
ận động ngoại biên và viêm cơ tim, có thể gây tử vong trong vòng 6 – 10 ngày. Tỷ lệ tử vong do
bệnh là 5 - 10%.
Phòng bệnh Bạch hầu như thế nào?
Phụ huynh và thầy cô giáo cần nâng cao cảnh giác, nhận thức và thông tin cần thiết về bệnh
Bạch hầu nhằm phát hiện sớm người bệnh nhằm cách ly, phòng bệnh.
Nhà ở, nhà trẻ, lớp học phải thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng.
Tiêm vắc xin ngừa bệnh Bạch hầu là biện pháp được cho thấy rất hiệu quả trong phòng bệnh.
Đối với trẻ nhỏ, nhất là trẻ dưới 01 tuổi, các bậc phụ huynh cần đưa trẻ đến gặp Bác sĩ để được
tư vấn và tiêm ngừa đầy đủ các liều cơ bản cũng như các liều vắc xin nhắc lại nhằm phòng
ngừa bệnh Bạch hầu tốt nhất cho trẻ. Nhóm trẻ lớn hơn, dù đã được tiêm ngừa đầy đủ các
mũi vắc xin kết hợp có ngừa bệnh Bạch hầu ở giai đoạn dưới 2 tuổi vẫn nên được đánh giá
tiêm chủng nhắc lại để đảm bảo hiệu quả phòng bệnh cho trẻ.
Tóm lại, Bạch hầu là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm và có thể gây tử vong trong vòng
6 – 10 ngày. Tuy nhiên, bệnh lại dễ dàng để phòng ngừa bằng vắc xin với hiệu quả rất cao.
Hiện nay tại Việt Nam, có nhiều loại vắc xin có thể ngừa được bệnh Bạch hầu cho cả người
lớn và trẻ em. Đối với trẻ em, vắc xin kết hợp ngừa được bệnh Bạch hầu (vắc xin dịch vụ
và TCMR) có thể bắt đầu sử dụng từ lúc trẻ 2 tháng tuổi. Hãy chủ động bảo vệ sớm cho con
em của mình trước bệnh Bạch hầu.
Nguồn: Bệnh viện Nhi Đồng 1